Hà Nội nằm ở tả ngạn sông Đà và hai bên đồng bằng sông Hồng, nằm giữa trung tâm đồng bằng Bắc Bộ. Phía Bắc giáp với tỉnh Vĩnh Phúc và Thái Nguyên, phía Nam giáp tỉnh Hòa Bình, phía Đông giáp với tỉnh Bắc Ninh và Hưng Yên, còn phía Tây giáp tỉnh Vĩnh Phúc. Sau khi được mở rộng, Hà Nội nằm trong top 17 Thủ đô có diện tích lớn nhất thế giới với 3.324,92km². Với điều kiện tự nhiên và giao thông thuận lợi, nguồn nhân lực dồi dào, Thủ đô Hà Nội không chỉ là trung tâm chính trị - hành chính quốc gia, trung tâm lớn về văn hóa, khoa học, giáo dục, mà còn có vai trò là một trong hai đầu tàu kinh tế của đất nước, động lực phát triển của Vùng Thủ đô, Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, Vùng đồng bằng sông Hồng.
Trong bối cảnh kinh tế Việt Nam vẫn còn phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, nhưng Hà Nội vẫn đạt được nhiều thành tựu nổi bật trong thực hiện các chỉ tiêu, nhiệm vụ đề ra. Tổng sản phẩm trên địa bàn thành phố Hà Nội (GRDP) 6 tháng đầu năm 2024 ước tăng 6,0% so với cùng kỳ năm trước.
Theo Cục thống kê Hà Nội, 6 tháng đầu năm 2024, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của thành phố Hà Nội tăng 11% (đạt 8,9 tỷ USD), kim ngạch nhập khẩu hàng hóa tăng 14,9% (đạt 19,7 tỷ USD) so với cùng kỳ năm 2023.
I. Tình hình đăng ký doanh nghiệp của Hà Nội trong 7 tháng đầu năm 2024
1. Về doanh nghiệp thành lập mới:
Theo số liệu thống kê từ Cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký doanh nghiệp, bức tranh tình hình doanh nghiệp đăng ký thành lập mới trong 7 tháng đầu năm 2024 ghi nhận có tín hiệu khả quan hơn so với tuần trước đó. Số lượng, số vốn và số lao động đăng ký của doanh nghiệp thành lập mới đều tăng, cụ thể: trong 7 tháng đầu năm, Hà Nội có 18.268 doanh nghiệp thành lập mới, tăng 0,31% (chiếm 61,7% khu vực đồng bằng sông Hồng và chiếm 19,18% cả nước) với số vốn đăng ký đạt 165.739 tỷ đồng tăng 0,19% (chiếm 50,49% khu vực đồng bằng sông Hồng và chiếm 19,39% cả nước) và 88.739 lao động tăng 7,2% (chiếm 35,43% khu vực đồng bằng sông Hồng và chiếm 14,78% cả nước).
Cả nước có 95.217 doanh nghiệp thành lập mới với số vốn đăng ký là 854.646 tỷ đồng và tổng số lao động đăng ký là 600.395 người, tăng 6,26% về số doanh nghiệp, tăng 2,44% về số vốn và tăng 1,96% về số lao động đăng ký so với 7 tháng đầu năm 2023. Vốn đăng ký bình quân trên một doanh nghiệp đạt 9,07 tỷ đồng (khu vực đồng bằng Sông Hồng là 11,08 tỷ đồng, cả nước là 8,97 tỷ đồng).
2. Về doanh nghiệp quay trở lại hoạt động:
Tại Hà Nội, trong 7 tháng đầu năm 2024 có 9.947 doanh nghiệp quay lại hoạt động (chiếm 69,46% khu vực đồng bằng sông Hồng và chiếm 22,47% cả nước), tăng 9,21% so với 7 tháng đầu năm 2023 (Cả nước có 44.273 doanh nghiệp quay lại hoạt động, tăng 4,73% so với cùng kỳ 2023). Đây là tín hiệu tích cực của riêng Hà Nội và của cả nước trong bối cảnh các doanh nghiệp đang gặp nhiều khó khăn nói chung.
3. Về doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng kinh doanh có thời hạn, doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể và doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể:
Với vai trò và vị trí quan trọng, Hà Nội là nơi có nhiều khu công nghiệp với số lượng doanh nghiệp và lao động lớn. Trước tình hình kinh tế trong nước và thế giới gặp nhiều khó khăn, do đó, các doanh nghiệp tại Hà Nội đã phải chịu sự ảnh hưởng nặng nề do thiếu hụt các đơn hàng, doanh thu không đủ để bù đắp chi phí duy trì hoạt động sản xuất, kinh doanh, cũng như đứt gãy một số chuỗi cung ứng nguyên liệu đầu vào cũng như tiêu thụ đầu ra của sản phẩm. Điều này thể hiện ở sự gia tăng số doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng kinh doanh có thời hạn, doanh nghiệp giải thể và doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động chờ giải thể.
Theo số liệu tại Cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký doanh nghiệp, trong 7 tháng đầu năm 2024, tại Hà Nội có 18.020 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng kinh doanh có thời hạn (chiếm 66,05% khu vực đồng bằng sông Hồng và chiếm 23,10% cả nước), tăng 21,7% so với cùng kỳ năm 2023 (cả nước có 78.002 doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh, tăng 16,7% so với cùng kỳ năm 2023); 3.621 doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể (chiếm 48,37% khu vực đồng bằng sông Hồng và chiếm 21,06% cả nước), tăng 20,9% so với cùng kỳ năm 2023 (cả nước có 35.531 doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể, giảm 1,5% so với cùng kỳ năm 2023); và 2.611 doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể (chiếm 64,40% khu vực đồng bằng sông Hồng và chiếm 21,89% cả nước), tăng 21,7% so với cùng kỳ năm 2023 (cả nước có 11.923 doanh nghiệp giải thể, tăng 14,5% so với cùng kỳ năm 2023).
II. Về tình hình cải cách TTHC, cải thiện môi trường kinh doanh
1. Chỉ số Năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI)
Trong năm 2023, Chỉ số PCI của Hà Nội xếp vị trí thứ 28 với 67,15 điểm. So với các tỉnh/thành phố trên cả nước, Hà Nội nổi trội về lĩnh vực Chi phí thời gian đạt 7,48 điểm và Đào tạo lao động đạt 7,43 điểm, chính sách hỗ trợ doanh nghiệp 7,38 điểm. Một số lĩnh vực hiện còn ở vị trí thấp như: Cạnh tranh bình đẳng 5,86 điểm, Tiếp cận đất đai 5,89 điểm.

Trong những năm trở lại đây thứ hạng của Hà Nội liên tục bị giảm thứ hạng. Từ thứ 9 với 68,80 điểm (2019), thứ 9 với 66,93 điểm (năm 2020), thứ 10 với 68,60 điểm (năm 2021), thứ 20 với 66,74 điểm (năm 2022) và thứ 28 với 67,15 điểm (năm 2023).
2. Chỉ số Hiệu quả quản trị và Hành chính công cấp tỉnh (PAPI)
Năm 2023, Hà Nội đạt 43,96 điểm và nằm trong nhóm tỉnh có điểm số trung bình cao.

Điểm số của Hà Nội gần như tăng đều qua các năm, từ 2019 (41,54 điểm) và 2020 (41,63 điểm), năm 2021 (44,45 điểm), năm 2022 (43,91 điểm) và năm 2023 (43,96 điểm).
3. Kiến nghị, đề xuất
Là một trong những đầu tàu kinh tế của cả nước, Hà Nội cần có nhiều giải pháp hơn nữa để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
3.1. Cải thiện chỉ số khởi sự kinh doanh, hỗ trợ phát triển doanh nghiệp
- Triển khai có hiệu quả Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày 05/01/2024 của Chính phủ về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2024 để cải thiện mạnh mẽ chất lượng môi trường kinh doanh, phù hợp với bối cảnh và xu thế phát triển, nhằm nâng cao vị thế của Hà Nội. Tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, tăng nhanh về số lượng doanh nghiệp mới thành lập; giảm tỷ lệ doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động; tăng số lượng doanh nghiệp có hoạt động đổi mới sáng tạo, chuyển đổi xanh, chuyển đổi số; giảm chi phí đầu vào và chi phí tuân thủ pháp luật trong hoạt động đầu tư, kinh doanh; củng cố niềm tin, tạo điểm tựa phục hồi và nâng cao sức chống chịu của doanh nghiệp.
- Thực hiện công khai minh bạch các cơ chế, chính sách, quy trình, thủ tục hành chính về đăng ký doanh nghiệp, đăng ký đầu tư và tăng cường sự phối hợp giữa các ngành, các cấp trong thu hút, quản lý các dự án đầu tư.
- Định kỳ hàng năm tổ chức đối thoại với doanh nghiệp bằng nhiều hình thức trực tiếp hoặc trực tuyến nhằm lắng nghe ý kiến phản hồi của doanh nghiệp, qua đó xử lý kịp thời những khó khăn, vướng mắc trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
- Triển khai thực hiện khảo sát về sự hài lòng của doanh nghiệp với các cơ quan quản lý nhà nước, qua đó kịp thời chấn chỉnh, khắc phục những tồn tại yếu kém của các Sở, ban ngành trong việc phục vụ người dân và doanh nghiệp.
- Xây dựng chính sách thúc đẩy các ngành, lĩnh vực còn dư địa để phát triển; đẩy mạnh hơn nữa việc thực hiện Đề án Hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo, chuyển đổi số trên địa bàn tỉnh.
- Về cải thiện chỉ số Năng lực cạnh tranh cấp tỉnh PCI, Hà Nội cần lưu ý để có giải pháp cải thiện điểm số một số chỉ tiêu đang có điểm số thấp như: Cạnh tranh bình đẳng, Tiếp cận đất đai.
3.2. Phát triển văn hóa, xã hội
- Về xã hội:
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực qua việc phát triển giáo dục đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội.
Mở rộng bảo trợ xã hội như đảm bảo an sinh xã hội cho người dân, đặc biệt là các đối tượng yếu thế.
Cải thiện hệ thống y tế: nâng cao chất lượng khám chữa bệnh, phát triển y tế dự phòng, y tế cộng đồng.
Bảo vệ môi trường: nâng cao ý thức bảo vệ môi trường của người dân, đẩy mạnh công tác bảo vệ môi trường, ứng phó biến đổi khí hậu.
Giảm thiểu ùn tắc giao thông: phát triển hệ thống giao thông công cộng, khuyến khích sử dụng phương tiện giao thông thân thiện với môi trường.
- Về văn hóa:
Bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống: bảo vệ di sản văn hóa, tổ chức các hoạt động văn hóa, lễ hội truyền thống.
Phát triển văn hóa hiện đại: phát triển các ngành công nghiệp văn hóa, ứng dụng khoa học công nghệ vào lĩnh vực văn hóa.
Giao lưu văn hóa quốc tế: tăng cường giao lưu văn hóa với các quốc gia trên thế giới, quảng bá hình ảnh văn hóa Việt Nam mà cụ thể là Hà Nội ra thế giới.
Trần Thị Xuyến