Bến Tre là một trong 13 tỉnh, thành phố thuộc khu vực đồng bằng sông Cửu Long, được hợp thành bởi 3 dãy cù lao: Cù lao An Hóa, cù lao Bảo, cù lao Minh và do phù sa 4 nhánh sông Cửu Long bồi tụ: Sông Cửa Đại, sông Ba Lai, sông Hàm Luông, sông Cổ Chiên. Với vị trí địa lý khá thuận lợi, khoảng cách đường bộ từ Bến Tre đến Thành phố Hồ Chí Minh 88 km và từ Bến Tre đến Thành phố Cần Thơ 110 km, hệ thống giao thông đường bộ ngày càng hoàn thiện và phân bố đều khắp trong tỉnh; sau khi cầu Rạch Miễu, cầu Hàm Luông và cầu Cổ Chiên hoàn thành đưa vào sử dụng, Bến Tre đã phá được thế biệt lập và tạo tuyến đường bộ thông suốt đi Thành phố Hồ Chí Minh, tỉnh Tiền Giang, Trà Vinh, Vĩnh Long và các tỉnh, thành trong khu vực. Mặt khác, Bến Tre thuộc khu vực tam giác hệ thống sông Tiền nên thuận lợi về đường thủy, với 4 hệ thống sông chính hướng ra biển Đông và hệ thống kênh rạch là các trục giao thông đối ngoại quan trọng gắn kết kinh tế tỉnh Bến Tre với các tỉnh vùng đồng bằng sông Cửu Long và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, từ đó tạo điều kiện để khơi dậy và phát triển mạnh mẽ tiềm năng kinh tế - xã hội trong thời gian tới.
Bến Tre là một tỉnh nông nghiệp, tận dụng thế mạnh là kinh tế vườn và kinh tế biển, thời gian qua tỉnh đã xây dựng và hoàn thiện chuỗi giá trị trên các sản phẩm nông nghiệp chủ lực của tỉnh. Xác định năm 2019 là năm “Tiếp tục tăng tốc - tạo bứt phá” để ”về đích” vào năm 2020, cả hệ thống chính trị và toàn thể nhân dân tỉnh nhà đã đồng lòng, gắng sức và nỗ lực cao trong thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội. Mặc dù, phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, song với tinh thần ”Đồng Khởi mới”, Đảng-Quân-Dân Bến Tre đã phát huy tối đa những thuận lợi, khắc phục cơ bản các khó khăn để thực hiện thành công các mục tiêu, nhiệm vụ đề ra. Nhờ đó, trong năm 2019, tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh phát triển khá tốt, nhiều chỉ tiêu kinh tế của tỉnh đạt kết quả cao thể hiện tính bứt phá với 24/24 chỉ tiêu đạt và vượt, trong đó: Tốc độ tăng trưởng kinh tế chung (GRDP) đạt mức khá cao tăng 7,39% so với cùng kỳ năm trước; Sản xuất nông nghiệp tiếp tục mang lại hiệu quả thiết thực và đang tạo sự chuyển biến tích cực, cả về số lượng lẫn chất lượng. Góp phần cho giá trị tăng thêm của khu vực nông - lâm - thủy sản tăng 3,73% so cùng kỳ; Lĩnh vực công nghiệp phát triển khá cao, các giải pháp hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp được triển khai thực hiện đồng bộ, góp phần nâng cao năng lực sản xuất, ổn định hoạt động và phát triển thị trường tiêu thụ. Nhiều sản phẩm công nghiệp tăng trưởng khá so với cùng kỳ, với mức tăng trưởng toàn ngành trong năm 2019 đạt 13,29%, chiếm 18,83% cơ cấu kinh tế của tỉnh; Hoạt động thương mại và dịch vụ phát triển khá ổn định, tăng 7,55% so với cùng kỳ. Tổng thu ngân sách năm 2019 ước đạt 10.714 tỷ đồng vượt dự toán trung ương giao 12,62%, so với cùng kỳ năm trước tăng 7,55%.
Môi trường đầu tư kinh doanh của tỉnh cũng được cải thiện mạnh mẽ, với các giải pháp đồng bộ, nhất quán, đã thu hút nhiều nhà đầu tư đến tỉnh tìm hiểu cơ hội và triển khai dự án, nhất là phát triển đô thị. Song song đó, tỉnh đặc biệt quan tâm đến Khởi nghiệp và hỗ trợ doanh nghiệp, với nhiều hoạt động được triển khai, điển hình là diễn đàn kết nối khởi nghiệp. Các doanh nghiệp khởi nghiệp bước đầu tuy có quy mô nhỏ, nhưng hoạt động tương đối ổn định và có tiềm năng phát triển thị trường khá tốt. Chỉ số Năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) năm 2019 của Bến Tre đạt 69,34 điểm, tăng 1,67 điểm so năm 2018, tuy nhiên, về thứ hạng lại giảm 3 bậc, đứng thứ 7 cả nước và đứng thứ 3 ở Khu vực Đồng bằng sông Cửu Long sau các tỉnh Đồng Tháp và Vĩnh Long.
I. Về tình hình đăng ký doanh nghiệp tại tỉnh Bến Tre
1. Tình hình doanh nghiệp đang hoạt động:
Bến Tre hiện có 3.131 doanh nghiệp đang hoạt động (chiếm 5,6% vùng Đồng bằng Sông Cửu Long và 0,4% cả nước). Bến Tre đang xếp thứ 42 cả nước về số lượng doanh nghiệp đang hoạt động.
Theo Sách trắng Doanh nghiệp Việt Nam 2020, bình quân cả nước năm 2019 có 7,9 doanh nghiệp đang hoạt động trên 1.000 dân. Có 8/63 địa phương có mật độ doanh nghiệp đang hoạt động trên 1.000 dân cao hơn bình quân cả nước, cụ thể: (1) Thành phố Hồ Chí Minh có 26,5 doanh nghiệp; (2) Đà Nẵng có 19,8 doanh nghiệp; (3) Hà Nội có 19,3 doanh nghiệp; (4) Bình Dương có 12,9 doanh nghiệp; (5) Hải Phòng có 9,8 doanh nghiệp; (6) Khánh Hòa có 9,0 doanh nghiệp; (7) Bà Rịa - Vũng Tàu có 8,8 doanh nghiệp và (8) Bắc Ninh có 8,2 doanh nghiệp. Trong khi đó, Bến Tre có 2,4 doanh nghiệp đang hoạt động trên 1.000 dân, thấp hơn nhiều so với bình quân cả nước.
Cũng theo Sách trắng Doanh nghiệp Việt Nam 2020, bình quân cả nước năm 2019 có 15,4 doanh nghiệp đang hoạt động trên 1.000 dân trong độ tuổi lao động. Có 9/63 địa phương có mật độ doanh nghiệp đang hoạt động trên 1.000 dân trong độ tuổi lao động cao hơn bình quân cả nước, cụ thể: (1) Thành phố Hồ Chí Minh có 54,4 doanh nghiệp; (2) Hà Nội có 43,0 doanh nghiệp; (3) Đà Nẵng có 40,1 doanh nghiệp; (4) Bình Dương có 21,3 doanh nghiệp; (5) Hải Phòng có 20,5 doanh nghiệp; (6) Bà Rịa - Vũng Tàu có 17,4 doanh nghiệp; (7) Khánh Hòa và Bắc Ninh cùng có 17,2 doanh nghiệp; (9) Cần Thơ có 15,6 doanh nghiệp. Bến Tre có 4,5 doanh nghiệp đang hoạt động trên 1.000 dân trong độ tuổi lao động (thấp hơn mức trung bình của cả nước).
2. Về doanh nghiệp thành lập mới:
Trong 6 tháng đầu năm 2020, Bến Tre có 236 doanh nghiệp thành lập mới (chiếm 5,2% vùng Đồng bằng Sông Cửu Long và chiếm 0,4% cả nước) với số vốn đăng ký là 1.655 tỷ đồng (chiếm 4,5% khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long, chiếm 0,2% cả nước), giảm 7,5% về số doanh nghiệp và tăng 19,7% về số vốn so với cùng kỳ năm ngoái. Tổng số lao động đăng ký của các doanh nghiệp thành lập mới tại Bến Tre là 1.909 (chiếm 3,3% khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long, chiếm 0,4% cả nước), giảm 36,2% so với cùng kỳ năm ngoái (Cả nước có 62.049 doanh nghiệp thành lập mới với số vốn đăng ký là 697.089 tỷ đồng và tổng số lao động đăng ký là 507.233 người, giảm 7,3% về số doanh nghiệp, giảm 19% về số vốn và giảm 21,8% về số lao động đăng ký so với cùng kỳ năm 2019).
3. Về doanh nghiệp quay trở lại hoạt động:
Tại Bến Tre, trong 6 tháng đầu năm 2020 có 107 doanh nghiệp quay trở lại hoạt động (chiếm 6,0% vùng Đồng bằng Sông Cửu Long và 0,4% cả nước), tăng 35,4% so với cùng kỳ năm trước (Cả nước có 25.157 doanh nghiệp quay lại hoạt động, tăng 16,4% so với cùng kỳ năm 2019).
4. Về doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng kinh doanh có thời hạn, doanh nghiệp giải thể, chờ giải thể và doanh nghiệp không hoạt động tại địa chỉ đăng ký:
Theo số liệu của Cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký doanh nghiệp, trong 6 tháng đầu năm 2020, tại Bến Tre có: 124 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng kinh doanh có thời hạn (chiếm 7,7% vùng Đồng bằng Sông Cửu Long và chiếm 0,4% cả nước), tăng 31,9% so với cùng kỳ năm 2019 (cả nước có 29.169 doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh, tăng 38,2% so cùng kỳ 2019); 126 doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể (chiếm 5,2% vùng Đồng bằng Sông Cửu Long và chiếm 0,6% cả nước), giảm 43,8% so với cùng kỳ năm 2019 (cả nước có 19.625 doanh nghiệp tạm ngừng chờ giải thể, giảm 10,2% so cùng kỳ 2019); 53 doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể (chiếm 7,1% vùng Đồng bằng Sông Cửu Long và chiếm 0,7% cả nước), giảm 22,1% so với cùng kỳ năm 2019 (cả nước có 7.433 doanh nghiệp giải thể, giảm 5,0% so với cùng kỳ 2019).
Ngoài ra, theo số liệu của Cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký doanh nghiệp, trong 6 tháng đầu năm 2020, tại Bến Tre có 53 doanh nghiệp không hoạt động tại địa chỉ đã đăng ký (chiếm 3,0% vùng Đồng bằng Sông Cửu Long và 0,2% cả nước), tăng 152,4% so cùng kỳ năm 2019 (cả nước có 22.398 doanh nghiệp không hoạt động tại địa chỉ đã đăng ký, tăng 33,9% so cùng kỳ 2019).
II. Về tình hình cải cách TTHC, cải thiện môi trường kinh doanh
- Nhìn chung, tình hình giải quyết thủ tục hành chính (TTHC) về đăng ký doanh nghiệp tại Bến Tre được xử lý tương đối tốt. Cụ thể trong năm 2019: thời gian trung bình xử lý hồ sơ đăng ký thành lập mới là 0,86 ngày, nhanh hơn so với quy định tại Luật Doanh nghiệp (03 ngày làm việc); tỷ lệ hồ sơ được giải quyết đúng hạn đạt 99,71% trên mức trung bình cả nước là 98,36%. Bến Tre cũng đã bắt đầu triển khai việc áp dụng phương thức đăng ký doanh nghiệp qua mạng điện tử với tỷ lệ hồ sơ đăng ký doanh nghiệp được thực hiện bằng phương thức này đạt 11,46%, thấp hơn mức trung bình của cả nước là 70,7%.
- Về chỉ số Năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) năm 2019, Bến Tre đạt 69,34 điểm, xếp vị trí thứ 7/63 cả nước, nằm trong nhóm điều hành tốt và xếp thứ 3/13 tỉnh, thành vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Trong 10 chỉ số thành phần để tính PCI, Bến Tre có 3 chỉ số giảm điểm đó là: Tiếp cận đất đai giảm 0,26 điểm, còn 7,02 điểm; cạnh tranh bình đẳng giảm 0,25 điểm, còn 7,46 điểm; dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp giảm 0,75 điểm còn 6,34 điểm.
- Về chỉ số Hiệu quả quản trị và Hành chính công cấp tỉnh ở Việt Nam (PAPI), Bến Tre là tỉnh có tổng điểm cao nhất với 46,74 điểm, với 7 chỉ số thành phần có điểm ở mức cao nhất, trừ chỉ số chính phủ điện tử có điểm trong nhóm thấp.
Tại Báo cáo chỉ số Cải cách hành chính (PAR INDEX 2019), Bến Tre đạt 73,87%, xếp hạng 63/63, thuộc nhóm C (nhóm trung bình thấp, gồm 19 tỉnh, thành phố).
Phạm Văn Thiện